Các loại thuốc và hóa chất gây dị tật (Phần 2)

Các loại thuốc và hóa chất gây dị tật thai nhi như thuốc chống đông máu, nôn, ung thư,... mọi bà mẹ nên tránh xa trong thời kỳ mang thai để bảo vệ sự an toàn cho thai nhi được chào đời khỏe mạnh, cơ thể hoàn thiện. Thành phần trong những loại thuốc này vô cùng độc hại đối với trẻ không chỉ khiến bé bị dị tật mà có thể chết trong tử cung mẹ.
- Thuốc chống đông máu: Tất cả các thuốc chống đông máu, ngoại trừ Heparin, đều có thể qua nhau và gây xuất huyết cho thai.

Warfarin là chất gây quái thai. Warfarin có nguồn gốc liên quan vitamin K. Có 1 số báo cáo các sản phụ có dùng thuốc này sinh con bị tật thiểu sản sụn mũi và có các dị tật thần kinh. Dùng thuốc này trong tam cá nguyệt 2 và 3 có thể sinh con chậm phát triển tâm thần, teo thần kinh thị giác, não nhỏ.
Heparin không qua nhau, do đó Heparin không phải là chất gây quái thai.
Các thuốc an thần (thuốc chống co giật).
+ Trimethadione (Tridione) và paramethadione (Paradione) chắc chắn gây dị tật. Triệu chứng chính của trẻ bị nhiễm trimethadione là chậm phát triển, lông mày chữ V, tai đóng thấp, sứt môi có thể kèm nứt vòm họng.

+ Phenytoin (Dilantin) là chất gây dị tật. Hội chứng thai bị phenytoin gồm các tật sau: chậm phát triển trước sinh, đầu nhỏ, thiểu năng tinh thần, rãnh xương trán ụ lên, có nếp quạt trong, sụp mi mắt, sống mũi tẹt, thiểu sản móng tay và đốt xa, thoát vị bẹn.

+ Phenobarbital là thuốc chống co giật dùng cho phụ nữ có thai tương đối an toàn.

- Thuốc chống nônBendectin: Còn nhiều tranh cãi, đặc biệt qua báo chí.
Các nhà phôi thai học cho rằng Bendectin (Doxylamine) không phải là chất gây dị tật cho người, bởi qua nghiên cứu dùng thuốc cho sản phụ không thấy trẻ sinh ra bị dị tật. Ngoài ra cũng không thấy thuốc đã gây dị tật trên loài vật.
Thuốc chống ung thư: Các hóa chất trị ung thư có tính gây dị tật cao. Điều này không có gì ngạc nhiên do bởi các chất này ức chế sự phân chia tế bào. Dùng các thuốc gốc a. folic thường làm chết thai, 20-30% thai sống được thì thường có dị tật nặng.

+ Busulfan và 6-mercaptopurine dùng luân phiên có thể gây đa dị tật nặng, song dùng riêng từng loại thì không thấy gây dị tật.

+ Aminopterin là chất gây dị tật rất nguy hiểm cho thai, đặc biệt cho hệ thần kinh trung ương.

+ Corticosteroid: Dùng corticosteroid ở chuột và thỏ cho sanh con có tật nứt vòm họng và tim bẩm sinh. Tuy nhiên ở người vẫn chưa có kết luận chính thức là crotisteroid gây ra nứt vòm họng hoặc các dị tật khác.

Các chất hóa học: Trong vài năm gần đây, người ta quan tâm nhiều hơn về tính gây dị tật của các chất hóa học có trong đời sống như các chất ô nhiễm công nghệ, chất phụ gia thực phẩm. Đa số các chất này chưa thấy gây dị tật cho người.

+ Thủy ngân: Những sản phụ dùng nhiều loại cá có nhiễm thủy ngân sanh con bị bệnh Minamata có rối loạn thần kinh và hành vi như trẻ bại não (vụ án cá ở vịnh Minamata ô nhiễm thủy ngân từ nước thải công nghiệp, Matsumoto và cs, 1965; Bakir và cs, 1973). Một vài trường hợp trẻ bị tổn thương não nặng, chậm phát triển tâm thần, bị mù do mẹ bị ngộ độc thức ăn có chất thủy ngân. Ở Mỹ có vụ những sản phụ?anh con dị tật do ăn thịt heo mà heo đó đã được nuôi bằng bắp có xịt thuốc diệt nấm có thủy ngân. Sever và Brent, 1980 cho rằng thủy ngân là chất gây quái thai gây ra các trường hợp teo tiểu não, chứng co cứng, chứng co giật, và thiểu năng tinh thần.
+ Polychlorinated biphenyls (PCBs) là chất gây quái thai gây ra hội chứng chậm phát triển trước sanh và sạm màu da. Vụ cá nhiễm PCBs trong các hồ nước ở Bắc Mỹ (Rogan, 1986). Ở Nhật và Đài Loan, chất gây quái thai này đã được phát hiện trong dầu nấu ăn.

Bệnh tiểu đường: Mẹ bị tiểu đường có thể sanh con bị chết chu sanh, chết tuổi sơ sinh, hoặc sanh con có trọng lượng to nặng bất thường. Theo 1 số tác giả, những dị tật ở khung xương chậu và chi dưới có tỉ lệ cao ở trẻ có mẹ tiểu đường gấp 3 lần trẻ có mẹ bình thường. Có tác giả ghi nhận tật thiếu các đốt sống thắt lưng và tật của cơ và xương chi dưới liên quan mẹ bệnh tiểu đường. Insulin và các thuốc hạ đường máu. Nói chung các thuốc điều trị tiểu đường không được xem như chất gây quái thai.

LSD (Lysergic Acid Diethylamide): Có khả năng gây dị tật và không nên dùng khi có thai.

Cần sa: Chưa có đủ bằng chứng cho thấy cần sa có tính gây dị tật. Tuy vậy, có 1 vài trường hợp dùng cần sa sinh con bị chậm tăng trưởng trước sanh và thiểu năng tinh thần.

Retinoic Acid (Vitamin A): Thuốc này đã được khẳng định gây dị tật trên thú vật. Năm 1986, Rosa đã xác định tính gây quái thai của thuốc này. Isotretinoin (ITR) dùng điều trị mụn, là 1 chất gây dị tật nhẹ. Thời điểm dễ gây dị tật là từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 5. Các dị tật chính là dị dạng sọ-mặt, nứt vòm họng có thể kèm thiểu sản tuyến ức, dị dạng ống thần kinh. Vitamin A cần cho dinh dưỡng nhưng không nên dùng liều cao trong thời gian dài.

Salicylate: Aspirin có ảnh hưởng đến thai nếu dùng liều cao (Corby, 1978). Các chai thuốc Aspirine được in trên bao bì cho dùng khi có thai chỉ có nghĩa là nên dùng aspirin với liều thông thường.

- Các thuốc liên quan tuyến giáp:

+ Iode potassium có trong các thuốc ho và iode phóng xạ dùng liều cao có thể gây bướu giáp bẩm sinh. Iode đi qua nhau và ảnh hưởng đến việc tổng hợp thyroxin, làm to tuyến giáp và gây đần độn.

+ Không nên dùng thuốc Povidone-iodine dạng xịt hay dạng kem vì thuốc có thể ngấm qua niêm mạc âm đạo.

+ Propylthiouracil có ảnh hưởng đến việc tổng hợp thyroxin cho thai và có thể gây ra bướu giáp. Dùng các thuốc kháng giáp điều trị cho mẹ có thể gây dị tật cho con nếu dùng quá liều cần thiết. Mẹ thiếu iodine sinh con bị đần độn.

- Các thuốc an thần:

+ Thalidomide: Rất nhiều chứng cứ cho thấy đây là thuốc chống nôn và an thần có tính gây quái thai. Thuốc này trước đây đã được dùng rộng rãi tại các nước châu Ấu. Vụ án dị tật do thuốc Thalidomide được bắt đầu phát hiện từ năm 1959 (Newman, 1986). Năm 1966, Len thống kê có khoảng 7.000 trẻ bị dị tật do thalidomide. Thalidomide gây tật chi, được chia ra làm 2 loại là vô chi (không có chi hoàn toàn) và ngắn chi (chi rất nhỏ và ngắn do thiếu mất 1 đoạn chi). Thalidomide cũng gây ra các dị tật khác như không có tai trong và tai ngoài, bướu máu vùng trán, tim bẩm sinh, các dị tật tiết niệu và tịt ruột (Persaud, 1979, Persaud và cs, 1985). Thalidomide được chính thức thu hồi từ tháng 10/1961. Thời gian nhạy cảm của thalidomide là từ ngày 24-36 thai kỳ, ứng với giai đoạn tạo cơ quan.

+ Diazepam là loại thuốc dễ gây nứt vòm họng và sứt môi (Golbus, 1980).Do vậy khuyến cáo phụ nữ mang thai không nên dùng diazepam, đặc biệt là từ ngày 15 đến ngày 60 của thai kỳ.
+ Lithium carbonate: được sử dụng để trị bệnh tâm thần nhưng lại gây dị tật cho tim (Golbus, 1980). Lithium carbonate dù khiến cho con người dị tật, tuy nhiên Bộ Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ vẫn có thể dùng cho thai phụ bởi tác dụng của nó lợi nhiều hơn hại, nhưng phải qua sự chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ.
Babymart.vn/Tổng hợp

Bình luận